Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm: “Bao giờ về bên kia sông Đuống… Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”
Các bài văn mẫu lớp 12
Bình luận đoạn thơ sau trong bài thơ Qua sông Đuống của Hoàng Cầm: “Bao giờ tôi về bên kia sông Đuống… Cười với ánh sáng, lòng tôi hoài xuân xanh”
Bình luận đoạn thơ sau trong bài thơ Qua sông Đuống của Hoàng Cầm: “Bao giờ tôi về bên kia sông Đuống… Cười với ánh sáng, lòng tôi hoài xuân xanh”
Dạy
A. TỔ CHỨC
1. Mở bài
Đối với người Việt Nam, hình ảnh quê hương luôn hiện lên trong tâm hồn với bao nét đẹp gợi nhớ, gợi cảm, quê hương ai cũng thường có non sông. Đối với nhà thơ Hoàng Cầm, dòng sông Đuống “nằm nghiêng suốt cuộc kháng chiến trường kỳ” là hình ảnh khó phai mờ trong ký ức nhà thơ trong những ngày phải xa xứ vì khói lửa chiến tranh.
2. Cơ thể
Một. Khát vọng thầm kín nhưng cháy bỏng của Hoàng Cầm là được trở về quê hương Kinh Bắc
“Bao giờ con về” là nỗi khắc khoải, mong chờ cháy bỏng được trở lại quê hương Kinh Bắc của người con thân yêu sau bao ngày xa cách. Đây là một mong muốn đơn giản, chân thành. Cùng với cách nói trực tiếp, câu văn xuôi “Bao giờ em về bên kia sông Đuống” bỗng trở thành một câu thơ có âm hưởng nội tâm.
b. Niềm mong ước hạnh phúc, bình yên sẽ về trên quê hương trong sâu thẳm tâm hồn nhà thơ
– Ở đây, cả “anh” và “em” đều là những từ tầm thường, cụ thể, vừa thân mật, trìu mến, vừa gắn bó. Đặc biệt, “em” nối với “em” bằng hành động “tìm” còn diễn tả tình yêu thủy chung son sắt của nhà thơ đối với con người và quê hương nhỏ bé của mình.
– Bức tranh quê hương hiện lên trong tâm trí nhà thơ thật lộng lẫy, trẻ trung và thơ mộng:
tôi đang mặc yếm
Em mặc lụa hồng
Tôi đã đi đến lễ hội sông nước.
– Tiếng cười trong câu thơ cuối: “Nụ cười yêu ánh sáng, khát khao xuân xanh” là hình bóng đẹp của hạnh phúc, là biểu tượng của hạnh phúc.
c. Đánh giá
Đây là bài thơ đặc sắc gắn liền với hồn thơ tài hoa của Hoàng Cầm, đặc biệt là tình yêu quê hương sâu nặng trong sâu thẳm trái tim ông.
3. Kết luận
Bằng cách xưng hô nhiều nghĩa, bằng nghệ thuật điệp ngữ – điệp cấu trúc cú pháp, ẩn dụ tu từ, bằng hình ảnh thơ vừa sinh động, cụ thể, vừa tượng trưng; Với giọng điệu trữ tình, dịu dàng, đoạn thơ trên thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ Hoàng Cầm.
B. HỘI THẢO
Đối với người Việt Nam, hình ảnh quê hương luôn hiện lên trong tâm hồn với bao nét đẹp gợi nhớ, gợi cảm, quê hương ai cũng thường có non sông. Đối với nhà thơ Hoàng Cầm, dòng sông Đuống “nằm nghiêng suốt cuộc kháng chiến trường kỳ” là hình ảnh khó phai mờ trong ký ức nhà thơ trong những ngày phải xa xứ vì khói lửa chiến tranh. Khi ấy, nhà thơ không ngừng nuôi dưỡng khát vọng thanh bình cho quê hương Kinh Bắc nằm bên kia sông Đuống:
Bao giờ em về bên kia sông Đuống?
tôi tìm thấy bạn một lần nữa
tôi đang mặc yếm
Em mặc lụa hồng
Tôi đi dự lễ hội non sông
Nụ cười yêu ánh xuân xanh.
Đây là 6 câu cuối của bài thơ Qua sông Đuống. Bài thơ (dài 134 câu, chia làm hai phần. Phần một nói về quê hương nhà thơ bên kia sông Đuống bị quân giặc giày xéo, phần hai ghi cảnh bộ đội về đánh giặc).
Câu đầu của đoạn trích trên là ước mơ thầm kín nhưng cháy bỏng của Hoàng Cầm mong được trở về quê hương Kinh Bắc với trăm quý ngàn thương:
Bao giờ em sang bên kia sông Đuống?
Sông Đuống, tên chữ là sông Thiên Đức, là một chi lưu của sông Hồng, chia tỉnh Bắc Ninh thành hai phần: nam (hữu ngạn) và bắc (tả ngạn). Làng Lạc Thổ – quê nội của Hoàng Cầm ở phía Nam tỉnh Bắc Ninh, bên kia sông Đuống. Tin giặc Pháp đánh chiếm nam bộ Bắc Ninh đến với Hoàng Cầm vào một đêm tháng 4 năm 1948. Ông rất đau đớn và căm giận. “Bên kia” là vùng đất bị quân thù tàn phá, giày xéo. Từ Việt Bắc, nhà thơ đưa điểm nhìn của mình sang “bên kia sông Đuống”. uBao giờ con về” là niềm mong mỏi, mong chờ cháy bỏng được trở lại quê hương Kinh Bắc của người con thân yêu sau bao ngày xa cách. Đây là một mong muốn đơn giản, chân thành. Cùng với cách nói trực tiếp, câu văn xuôi “Bài sang bên kia sông Đuống” bỗng biến thành câu thơ có âm hưởng nội tâm.
Câu tiếp theo là ước mong hạnh phúc, bình yên sẽ trở về quê hương trong sâu thẳm tâm hồn nhà thơ:
Anh lại tìm em
“Anh” là cách xưng hô trìu mến, thân mật, đa nghĩa. Bạn có thể là một tác giả, một người tình, một người xa quê lên đường chinh chiến, một người con của mảnh đất Kinh Bắc. Là nhân vật trữ tình trong tưởng tượng của nhà thơ – một nhân vật trữ tình thường gặp trong thơ Hoàng Cầm, “Em” có thể là: phân thân của nhà thơ để dễ bộc lộ nỗi niềm riêng tư. của riêng anh, của người chị quê hương, của người tình cụ thể, của hậu phương hay còn là biểu tượng cao đẹp của quê hương Kinh Bắc. Vì vậy, ở đây cả “em” và “em” vừa là những từ tầm thường, vừa cụ thể, vừa thân mật, tình cảm, keo sơn. Đặc biệt, “anh” kết nối với “em” bằng hành động “đi tìm” đồng thời diễn tả tình yêu thủy chung son sắt của nhà thơ đối với con người, với đất nước. quê hương nhỏ bé.
Bức tranh quê hương được nhà thơ tái hiện trong tương lai thật lộng lẫy, trẻ trung và thơ mộng:
tôi đang mặc yếm
Em mặc lụa hồng
Tôi đi dự lễ hội non sông
Kinh Bắc là quê hương cổ kính, có truyền thống văn hóa nghệ thuật phong phú, đa dạng, phát triển mạnh mẽ qua các triều đại Lý, Trần, Lê. Kinh Bắc là quê hương của các phi tần, hoàng hậu, công chúa., là nơi sản sinh ra nhiều Trạng nguyên, Tiến sĩ, Thám hoa, Bảng nhãn của dân tộc ta: “Một ông Công, một đám Nghệ, một Tiến sĩ, một Trạng nguyên, một Thuyền Nhãn…”; là một vùng quê có nhiều danh lam, thắng cảnh, chùa chiền như núi Thiên Thai, chùa Bút Tháp, bãi biển Trạm Chỉ. Kinh Bắc là quê hương của nghệ thuật dân gian: hội Lim, tranh Đông Hồ (gà lợn) nổi tiếng. tranh thờ, tranh đám cưới chuột, tranh dừa, tranh đánh ghen, tranh anh hùng ngày xưa… hình ảnh, màu sắc tươi sáng, rõ nét); làng nghề phát triển: (Chợ Hồ, chợ Sủi, Bãi Trầm Chỉ, Đồng Tỉnh, Huê Cầu). Đặc biệt , Kinh Bắc còn là quê hương của những lễ hội dân gian: “Mồng bảy hội Khảm, mồng tám tết Dậu – mồng chín, khắp nơi đi hội Gióng” – nhưng trong lễ hội, dân gian những bài hát không thể thiếu Ca Quan họ ngọt ngào, tình cảm Vì thế cũng không thể thiếu e cho dáng nàng phải “yêu kiều”, “trong tấm lụa hồng”. Vì vậy, đối với Hoàng Cầm, hội quê hương cũng là hội đất nước: “Em đi trẩy hội non sông”. Tiếng cười trong câu thơ cuối: “Tiếng cười thắm đượm ánh xuân” bất ngờ phá tan không khí tang thương, chết chóc trả lại vẻ đẹp cổ kính, êm đềm, thanh bình, hạnh phúc cho vùng quê. hương Kinh Bắc. “Nụ cười sảng khoái” là nụ cười nồng nàn, hào hứng, lãng mạn, thơ mộng của cô em chủ nhà. “Nụ cười tỏa sáng yêu thương” của chị như nguồn ánh sáng lung linh, lấp lánh lan tỏa mãi cho hàng triệu bạn trẻ. Đó là nụ cười thần tiên, nụ cười của độc lập, tự do. Đó là nụ cười giục giã, giục giã, nụ cười thắp lên niềm tin mãnh liệt trong lòng nhà thơ. Suy cho cùng, nụ cười ấy là hình bóng đẹp đẽ của hạnh phúc, là biểu tượng của hạnh phúc. Câu lục bát “Em đi trẩy hội sông núi; Cười yêu ánh xuân xanh” đã khép lại câu thơ tự do, khép lại niềm khao khát, hoài niệm của nhà thơ nhưng âm điệu ngọt ngào, du dương, nhẹ nhàng của nó vẫn ngân vang sự tha thiết của nhà thơ, một nhà thơ yêu hạnh phúc, yêu hòa bình, yêu sắc đẹp.
Tóm lại, bằng cách xưng hô nhiều nghĩa, bằng nghệ thuật điệp ngữ – điệp cấu trúc cú pháp, ẩn dụ tu từ, bằng những hình ảnh thơ vừa sinh động, cụ thể, vừa tượng trưng; Với giọng điệu trữ tình, dịu dàng, đoạn thơ trên đã thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng trong sâu thẳm trái tim của nhà thơ Hoàng Cầm. Đằng sau khát vọng hòa bình cho quê hương Kinh Bắc, bài thơ còn thể hiện niềm khao khát hòa bình của nhà thơ cho cả đất nước Việt Nam.
Thu Trang
Bạn thấy bài viết Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm: “Bao giờ về bên kia sông Đuống… Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?
Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Châu Văn Liêm
Chuyên mục: VĂN MẪU LỚP 12
Nguồn: Trường Châu Văn Liêm