Trong hài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu có một “tượng đài nghệ thuật” mang tính bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xàm. Anh (chị) hãy phân tích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng nghệ thuật đó
Các bài văn mẫu lớp 11
Trong vở hài kịch “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, có một “tượng đài nghệ thuật” bi tráng về những người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. Em hãy phân tích phụng tự để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng nghệ thuật đó
Trong vở hài kịch “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, có một “tượng đài nghệ thuật” bi tráng về những người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. Em hãy phân tích phụng tự để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng nghệ thuật đó
Dạy
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là sự thể hiện rõ nét nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước, thương dân của Người. Bằng sự đồng cảm và ngưỡng mộ chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một “tượng đài nghệ thuật” bất hủ về người chiến sĩ nông dân anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Có thể nói, bài văn tế là khúc ca bi tráng về người nghĩa sĩ nông dân đã hy sinh mạng sống mình vì sự tồn vong của đất nước. Người nông dân nghèo “mồ côi làm ăn, lo nghèo” đã tự nguyện đứng lên gánh vác nhiệm vụ lớn lao và vô cùng gian khổ của đất nước: đánh giặc. Trước tội ác man rợ của giặc Pháp, trước thái độ hèn hạ của triều đình, chúng không thể làm ngơ. Quyền công dân thúc đẩy họ cầm vũ khí chiến đấu:
“Đợi tố cáo ai, bắt ai, lần này xin thử phá vòng vây;
Không thèm chạy trốn, chuyến đi này đã vượt khỏi tầm kiểm soát của bộ.
Họ không phải là những quân nhân chính quy của triều đình, mà chỉ là “những kẻ lấn quyền của dân chúng, những kẻ thích được thu nạp làm tân binh”. Đó là nghĩa nước quên mình, dám đánh giặc, dám hy sinh. Điều này hoàn toàn trái ngược với những quan lại triều đình tham sống sợ chết. Cũng vì thế mà hình ảnh người anh hùng nông dân thêm yêu thương, đáng trân trọng.
Không cần lệnh cấp trên, không đợi trang bị, không đợi huấn luyện, các anh lao vào cuộc chiến sinh tử với kẻ thù bằng một tinh thần quả cảm hiếm có:
“Kẻ đâm, kẻ chém ngược, gây nên tà ma, ma quái. Hạ trước, bàng sau, cho tàu thiếc, tàu đồng nổ tung’. Tinh thần đó đã làm cho những vũ khí thô sơ trong tay chúng trở nên hữu hiệu: “Hoa mai đánh rơm xong cung, đốt cả nhà dạy học – Gươm dùng lưỡi phay, cũng chém đầu hai quan”.
Bản lĩnh chiến đấu khắc phục nhược điểm về trang bị. Giữa bức tranh hoành tráng của trận mạc, nổi bật lên là hình bóng oai hùng, kiêu hãnh của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.
Thơ xưa của ta, trang tả trận đánh không nhiều, mà thường tả vài nét. Trong cuộc hi sinh này, nhà thơ đã miêu tả bằng những chi tiết rất chân thực, sống động nên không khí hào hùng mà gần gũi, thân thuộc với cuộc sống, với mọi người. Sức mạnh của nghệ thuật đã biến những hình ảnh đời thường thành hình ảnh đại diện cho những nghĩa sĩ nông dân quanh năm chân lấm tay bùn nhưng khi bừng cháy trái tim. Họ hóa thân thành những dũng sĩ cứu nước. Bóng của họ làm chủ trận địa, cao ngút trời, bao trùm cả không gian, thấp thoáng như một tượng đài nguy nga.
Cảm xúc chủ đạo của bài văn là cảm xúc bi tráng, lời lẽ đanh thép, dồn dập, mọi hành động được diễn đạt bằng động từ mạnh, giọng điệu sục sôi, dồn dập. Nghệ thuật chiến đấu đã phát huy hiệu quả cao nhất… Tất cả hòa thành một bản nhạc chiến đấu hào hùng, sôi nổi. Thật là một bản anh hùng ca tuyệt vời. Ngòi bút của tác giả hoàn toàn xứng đáng với nghĩa cử cao đẹp của người anh hùng nông dân; với tư tưởng vô cùng cao cả mà tác giả phát hiện ra trong hành động giết giặc cứu nước của họ.
Gần ba chục chiến sĩ nông dân đã hy sinh trong một trận chiến ác liệt và không cân sức. Cái chết thảm thương của họ làm cho con người và cây cỏ cả một vùng quê rộng lớn ngậm ngùi thương tiếc: “Mất sông Cần Giuộc mấy dặm cỏ cây – Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng”. Người chết vì nước. vì làm sao mà không xúc động trước đồng bào của đất nước được. “Tượng đài nghệ thuật” về người nghệ sĩ nông dân thật bi đát. Nó được dựng lên trong khói lửa chiến trường, trong tiếng kêu gào của quân xung phong, trong nước mắt, trong tiếng khóc thê lương của thi nhân và của nhân dân. Đây là một thành tựu nghệ thuật xuất sắc của nhà thơ yêu nước mù Nguyễn Đình Chiểu. Sự hi sinh ấy như một tấm bia, một mốc son, một lâu đài danh dự cho nông dân, cho nhân dân lao động miền Nam mãi mãi sáng ngời.
Thu Trang
Bạn thấy bài viết Trong hài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu có một “tượng đài nghệ thuật” mang tính bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xàm. Anh (chị) hãy phân tích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng nghệ thuật đó có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?
Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Châu Văn Liêm
Chuyên mục: VĂN MẪU LỚP 11
Nguồn: Trường Châu Văn Liêm